Đêm ấy khi tôi mở cửa lầu trên bước ra ngoài ban công hóng gió, tôi thấy mẹ tôi đã ngồi đó tự bao giờ. Mẹ gục đầu, hai tay nắm chặt vào nhau, bờ vai mẹ run run theo từng cơn thổn thức! Tôi len lén khẽ đến bên mẹ, nhẹ nhàng ngồi xuống mà không biết phải nói gì. Nghe tiếng thở nhẹ, mẹ nhìn sang, thấy tôi mẹ liền nắm lấy tay tôi, kéo tôi vào lòng và khóc. Với đầu óc non nớt của một đứa bé vừa mới lớn, tôi không thể nào hiểu nổi tại sao mẹ lại khóc ngon lành như vậy, chỉ nghĩ rằng chắc mẹ đang gặp chuyện gì buồn lắm đây.
Tôi còn nhớ ngày mẹ được tin bố mất ở nước ngoài vì tai nạn xe, mẹ đau buồn ghê lắm. Bệnh bao tử của mẹ tái phát khiến mẹ phải nhập viện vài tuần làm cả nhà tôi ai cũng phát lo. Nhưng lúc ấy mẹ không khóc nhiều như thế. Mẹ chỉ rơm rớm thôi. Sao đêm nay mẹ thổn thức nghẹn ngào quá?! Có điều gì xót xa hơn nỗi đau của một người đàn bà goá chồng phải một mình tần tảo nuôi con suốt mười mấy năm trời mà không hề than oán, cũng không hề nghĩ đến chuyện đi bước nữa? Có điều gì thương tâm hơn cảnh người mẹ còm cõi ngồi ôm con khóc trong đêm khuya thanh vắng? Phải chăng tôi đã làm gì sai khiến mẹ tôi đau lòng? Phải chăng mẹ đang gặp chuyện gì không hay trong cơ quan? Hay mẹ đang chạnh lòng nhớ bố?...
Mấy lần tôi mớm miệng định hỏi nhưng thấy mẹ tôi còn khóc, tôi không dám. Tôi chỉ ôm chặt mẹ và tận hưởng hơi ấm từ vòng tay và cả thân thể của mẹ truyền sang. Đêm đó trời se se lạnh vì đang là mùa Giáng Sinh nhưng tôi cảm thấy thật ấm áp khi ngồi trong lòng mẹ. Vậy nên tôi thích cứ được mẹ ôm mình mãi và tôi mong sao giây phút ấy trôi qua thật chậm, thật chậm để tôi có thể ôm mẹ lâu hơn.
Khóc hồi lâu rồi mẹ khẽ hỏi: “Ngày mai con đi lễ với mẹ được không?” Tôi lặng thinh không nói, lòng nghĩ lung lắm vì vẫn còn ấn tượng hoài Noel năm ngoái…
-------
Mọi việc diễn ra rất bất ngờ từ cái hôm ông mục sư đem hài cốt của bố tôi về Việt Nam. Bố tôi đi hợp tác lao động tại Đức lúc tôi còn ẵm ngửa. Khi ấy mẹ tôi phải bán ngôi nhà ở Thủ Đức để về ở chung với ông bà ngoại. Ở nơi đất khách quê người đó, phần vì buồn thương nhớ vợ con, phần vì miệt mài làm việc, bố tôi bị bệnh thận nặng, phải mổ lấy cả hai quả thận và lúc nào trên người cũng phải đeo máy lọc máu. Một tháng trước khi bố tôi mất, bố đã tin nhận Chúa Giê-xu và được một Hội Thánh bên ấy bảo trợ. Khi bố tôi qua đời rồi, chính Hội Thánh đã cưu mang làm lễ an táng và hỏa thiêu cho bố rồi cử người đem hài cốt về với gia đình tôi. Sau khi làm xong mọi thủ tục nhận lãnh, lúc ông mục sư sửa soạn ra về, thình lình mẹ tôi hỏi xin ông mục sư rằng liệu hai mẹ con chúng tôi có thể tham dự lễ Giáng Sinh sắp tới được không. Trước đó ông mục sư chưa hề chia sẻ điều gì về Chúa cho gia đình tôi cả. Nghe vậy, ông mục sư vui lắm, liền mời ngay hai mẹ con tôi đến dự lễ cùng Hội Thánh và trước khi ra về ông cũng không quên nhắn nhủ hai mẹ con về giờ giấc và địa điểm một lần nữa.
Hôm Giáng Sinh hai mẹ con tôi đến nhà thờ thật sớm. Quang cảnh nhà thờ thật đẹp. Mọi thứ nom thật dễ thương từ cây thông Noel trang hoàng lộng lẫy đến những ngôi sao, những quả cầu và hàng chuông trang trí đủ màu xinh xắn treo khắp nơi trong giáo đường. Mọi người chào đón hai mẹ con tôi rất nồng nhiệt và thân thiện làm tôi thích lắm. Tôi nghĩ Giáng Sinh ở nhà thờ xem chừng cũng hay nhưng ngờ đâu khi tham dự buổi lễ tôi mới thất vọng. Thật vô vị và chán chường dường bao! Sao người ta thích đứng lên ngồi xuống thế! Họ hát nghe cũng hay nhưng các bài hát toàn nói về ông Giê-xu nào đấy thật xa vời làm tôi chẳng mấy hứng thú. Lại còn một ông mục sư phốp pháp nào đó giảng một bài thật dài lê thê, tôi nghe mà hai lỗ tay lùng bùng cả lên vì chẳng hiểu mô tê gì cả. Mấy lần tôi định chuồn ra ngoài nhưng thấy mẹ đang chăm chú nghe ông ta giảng và mẹ thường khoe với mọi người tôi là đứa con ngoan, đặt đâu ngồi đó nên tôi lại thôi. Cuối giờ ông mục sư nọ kêu gọi mọi người lên tiếp nhận Chúa Giê-xu, mẹ liền nắm tay tôi cùng lên và tôi cũng cầu nguyện tiếp nhận Chúa như ai nhưng trong lòng thì không tin gì hết. Rồi tôi ra về và tự nhủ rằng sẽ không bao giờ ghé lại nơi này lần thứ hai.
Quả thật, kể từ hôm ấy tôi không hề đặt chân lên nhà thờ đó nữa. Dù mẹ tôi có nói hết lời tôi vẫn nhất quyết không đi. Tôi nói với mẹ rằng tôi cảm thấy chán đứng lên ngồi xuống quá, rằng đi lễ thì sớm mà tôi thì thích ở nhà ngủ vùi vào ngày Chúa Nhật hơn, rằng tôi thích ở nhà ăn đồ cúng hơn vì đồ cúng rất ngon, theo Chúa bỏ ăn những thứ đó uổng lắm… Tôi viện hàng ngàn lý do để mẹ tôi không dẫn tôi đi lễ nữa. Mẹ không la cũng không ép tôi nhưng gương mặt mẹ trông buồn lắm. Tôi biết nhưng vẫn cố làm ngơ vì thật sự là tôi không thích…
--------
Nghĩ tới ngày mai đi lễ với mẹ lòng tôi cảm thấy ngao ngán. Thấy mẹ khóc tôi rất thương nên không dám nói, chỉ yên lặng vờ như không nghe gì. Mẹ biết tôi không thích nên mẹ cũng không nói thêm lời nào, cứ ôm tôi mà khóc. Từng giọt, từng giọt nước mắt lăn dài trên má mẹ, lăn sang mặt tôi nóng hổi. Tôi cảm thấy mắt mình cũng cay cay. Khi ấy tôi thấy tội mẹ quá, cứ ôm chặt mẹ nhưng lòng dặn lòng kiên quyết không đi…
--------
Noel năm sau, mẹ tôi lại khóc! Trong đêm tối lạnh lẽo, mẹ vẫn ngồi đó, nơi ban công quen thuộc, vẫn ôm tôi vào lòng và khóc nức nở. Mỗi năm tôi thấy mẹ khóc nhiều hơn, giọt nước mắt càng nóng bỏng hơn vì không những mẹ chịu đựng sự cứng đầu, bướng bỉnh của tôi thôi mà mẹ còn chịu sự bắt bớ và chống đối ngày càng quyết liệt của gia đình. Mới đầu mẹ tôi tin Chúa, gia đình tôi không nói một lời. Nhưng qua những ngày sau, thấy mẹ không đốt nhang, không làm đồ cúng và biết mẹ cũng không chịu làm đám giỗ nữa, gia đình tôi đều không chấp nhận và chửi mẹ rất thậm tệ. Họ nói mẹ tôi nào là đồ bất hiếu, thứ bất nhân bỏ ông bỏ bà, đồ ngu si cuồng tín..v..v..Họ không những chửi mẹ tôi thôi mà còn chửi luôn cả Chúa, cả những con cái Chúa đến thăm viếng mẹ tôi nữa. Ông tôi là người chống đối mẹ tôi nhiều nhất. Ông rất hung và hay dùng những lời lẽ thô tục để chửi mẹ tôi. Có những lúc ông giận quá đã đánh mẹ tôi và đuổi hai mẹ con tôi ra khỏi nhà. Ông quăng đồ đạc chúng tôi ra ngoài sân, và xua mẹ đi như đuổi tà. Lúc đó mẹ chỉ khóc, lặng lẽ nhặt từng món đồ, gom chúng lại một chỗ và gục đầu trước hiên, chờ ông tôi nguôi giận rồi mới dám rón rén vào nhà. Tôi cũng lăng xăng giúp mẹ, lòng tự hỏi sao hai mẹ con tôi lại ra nông nổi này. Tôi thắc mắc không hiểu cái ông Giê-xu mà mẹ tôn thờ là ai mà mẹ sẵn sàng hy sinh đến thế? Tại sao ông ta lại khiến mẹ tôi đau khổ quá? Ông ấy có biết có những ngày mẹ tôi hai tay run run cầm chén cơm chan nước mắt mà ăn không? Ông có biết là mẹ tôi khóc nhiều đến nỗi mắt đã thâm quầng rồi không? Ông có hay trong những ngày giỗ, mẹ tôi chỉ lủi thủi trong bếp hoặc trốn trên gác khóc rấm rứt vì sợ bị bà con dòng họ đàm tếu nên chẳng dám bước lên nhà trên không?...Liệu ai sẽ giúp mẹ con tôi vượt qua cảnh khốn nạn này???...
Cứ thế ngày lại qua ngày trôi qua, ba năm liền mẹ tôi chẳng lấy một ngày vui trọn vẹn. Mẹ âm thầm chịu đựng, mặc cho gia đình lời ra tiếng vào, mẹ vẫn đi nhóm đều đặn, vẫn cầu nguyện thường xuyên và cứ đến Mùa Giáng Sinh là mẹ ôm tôi mà khóc. Song chính nhờ những giọt nước mắt quí giá ấy mà tôi được Chúa Giê-xu chạm đến và Ngài đã cứu lấy cuộc đời tôi. Tôi không hiểu vì sao tôi tự đến nhà thờ, tự tiến đến bục giảng, nơi mà tôi rất ghét trước đó, để quì gối và tiếp nhận Chúa Giê-xu là Cứu Chúa, là Chủ đời mình. Rất tự nguyện! Rất lạ lùng! Dường như có một bàn tay vô hình nào đó đã kéo tôi đến với Ngài mà tôi không cưỡng lại được. Bàn tay ấy hiện vẫn đang nắm giữ cuộc đời tôi. Khi tôi vấp ngã, tôi biết vẫn có người còn khóc cho tôi và một lần nữa tôi cảm thấy cánh tay ấy cho tôi sức mạnh để vực tôi dậy từ trong vũng bùn tội lỗi.
Kể từ Giáng Sinh năm đó mẹ tôi không còn khóc nữa!
Đã hơn mười năm trôi qua, sự bắt bớ đã giảm dần, ông tôi đã mất và gia đình tôi dần thông hiểu cho niềm tin của hai mẹ con chúng tôi hơn. Mẹ tôi giờ đây không còn phải khóc đau khổ cho tôi nữa vì tôi nay đã trở thành một người hầu việc Chúa sốt sắng. Tiếng khóc ấy chỉ còn đọng lại trong ký ức. Nhưng tôi biết nhiệm vụ của hai mẹ con chúng tôi chưa kết thúc. Tôi tiếp tục khóc cho những người thân còn lại trong gia đình và khóc cho cả dân tộc Việt Nam đang sống trong cảnh lầm than cơ cực, không chốn nương thân, không nơi nương tựa. Đâu đó vẫn còn có những mảnh đời bất hạnh đang cần tiếng khóc của tôi để lay động cánh tay quyền năng của Đức Chúa Trời vươn ra giải cứu họ.
Khi bạn đọc đến những dòng này, có thể bạn đang đồng cảnh ngộ, đồng tâm trạng với mẹ tôi cách đây mười năm. Có thể bạn đang khóc, đang tha thiết cầu nguyện cho người thân trong gia đình bạn, cho hàng xóm của bạn, bạn bè của bạn, hay một người nào đó mà bạn đang cưu mang. Vậy hãy khóc cho đến khi nước mắt hóa tiếng cười, hận thù hoá yêu thương và đau thương hoá vui mừng, bạn nhé! Rồi có một ngày bạn sẽ thấy:
“Những người gieo giống trong nước mắt, sẽ gặt hái trong hân hoan. Người nào vừa đi vừa khóc, mang giống ra gieo; sẽ trở về, vác bó lúa mình trong tiếng hát vui vẻ.” (Thi Thiên 126:5-6)
Sài Gòn 23/12/2006